1. Khái quát về hợp đồng thuê tầu chuyến
Hợp đồng thuê tầu chuyến là một dạng của hợp đồng thuê tầu, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về hợp đồng thuê tầu chuyến như sau: “Hợp đồng thuê tầu chuyến là hợp đồng chuyên chở hàng hoá bằng đường biển, trong đó người chuyên chở cam kết sẽ chuyên chở hàng hoá từ một hay một số cảng này đến một hay một số cảng khác giao cho người nhận còn người thuê tầu cam kết sẽ thanh toán cuớc phí theo đúng như thoả thuận của hợp đồng.”
Người chuyên chở (Carrier) trong hợp đồng thuê tầu chuyến có thể là Chủ tầu (Ship-owner) nhưng cũng có thể không phải là chủ tầu mà chỉ là người thuê tầu của người khác để kinh doanh lấy cước.
Còn người thuê tầu để chuyên chở hàng hoá có thể là người xuất khẩu và cũng có thể là người nhập khẩu theo điều kiện và cơ sở giao hàng được áp dụng trong hợp đồng mua bán ngoại thương.
Song trên thực tế người thuê tầu và người cho thuê tầu rất ít khi trực tiếp ký hợp đồng với nhau.
Trong thuê tầu nói chung và thuê tầu chuyến nói riêng, người ta hay thông qua đại lý hoặc người môi giới để tiến hành việc thuê tầu.
Người môi giới hay đại lý thường là những người có chuyên môn, am hiểu về thị trường thuê tầu, luật hàng hải, tập tục của các cảng... chính vì vậy khi thay mặt cho người thuê hay người cho thuê tầu để ký kết hợp đồng chuyên chở sẽ bảo đảm quyền lợi cho người uỷ thác tốt hơn.
2. Mối quan hệ giữa hợp đồng thuê tầu chuyến với vận đơn
Khi chuyên chở hàng hoá bằng tầu chuyến, chúng ta cần phân biệt hợp đồng thuê tầu (C/P) với vận đơn theo hợp đồng thuê tầu.
Hai loại chứng từ này đều liên quan tới hàng hoá chuyên chở nhưng có sự khác nhau.
Theo thông lệ Hàng hải quốc tế và bộ luật Hàng hải của Việt nam (điều 71-1), hợp đồng thuê tầu là cơ sở pháp lý xác định trách nhiệm và nghĩa vụ giữa người thuê tầu và người chuyên chở.
Sau khi hàng hoá được xếp lên tầu, người chuyên chở hoặc đại diện của họ có nghĩa vụ ký phát Vận đơn cho người giao hàng. Người giao hàng (Người xuất khẩu) dùng vận đơn để có cơ sở đòi tiền người nhập khẩu.
Trong luật Hàng hải quốc tế cũng như điều 81-3 bộ luật Hàng hải Việt nam thì vận đơn là cơ sở pháp lý để điều chỉnh quan hệ giữa người chuyên chở và người nhận hàng ở cảng đến.
Như vậy, khi chuyên chở hàng hoá được bán theo điều kiện CIF hay CFR người chuyên chở trở thành chủ thể của hai mối quan hệ pháp lý khác nhau và độc lập với nhau. Theo cuốn “Carriage by sea” (trang 350 - London 1973) của luật sư người Anh (Carver) thì người nhận hàng nhận vận đơn từ người xuất khẩu hàng và vận đơn đó quy định trách nhiệm của chủ tầu với người cầm giữ vận đơn (ở cảng đích), nó độc lập với hợp đồng thuê tầu, trừ trường hợp hai bên quy định rõ trong vận đơn có ghi chú và đưa nội dung hợp đồng thuê tầu vào đó.
Chính vì vậy mặc dù người cầm giữ vận đơn có thể nhận biết qua vận đơn rằng có tồn tại một hợp đồng thuê tầu như thế nhưng vận đơn khi đã chuyên cho người nhận hàng (người cầm giữ vận đơn) thì nó sẽ tạo ra một hợp đồng mới ràng buộc chủ tầu với người có vận đơn theo các điều kiện ghi trên vận đơn.
Thông thường, trong hợp đồng thuê tầu quy định nếu có tranh chấp sẽ giải quyết tại Trọng tài nước nào. Ngược lại trong vận đơn cũng có điều khoản trọng tài nói rõ khi có tranh chấp giữa người chuyên chở và người nhận hàng, tranh chấp đó sẽ được giải quyết ở đâu, theo luật nào (thường dẫn chiếu tới quy tắc Hague -Visby).
Như vậy không thể lấy điều khoản trọng tài trong hợp đồng thuê tầu để giải quyết tranh chấp phát sinh từ vận đơn và ngược lại (trừ vận đơn có quy định áp dụng điều khoản của hợp đồng thuê tầu) vì điều khoản trọng tài trong hai chứng cứ pháp lý này điều chỉnh hai loại quan hệ và chủ thể pháp lý khác nhau.
Thực tế trong quá trình chuyên chở, nếu có tranh chấp phát sinh thì người ta sẽ giải quyết tranh chấp đó dựa vào vận đơn hoặc dựa vào hợp đồng thuê tầu tuỳ theo các trường hợp sau đây:
- Trường hợp 1: Người nhận hàng đồng thời là người ký hợp đồng thuê tầu, khi có tranh chấp phát sinh đối với người chuyên chở sẽ lấy hợp đồng thuê tầu để giải quyết tranh chấp.
- Trường hợp 2: Người nhận hàng không phải là người ký hợp đồng thuê tầu, khi có tranh chấp phát sinh đối với người chuyên chở sẽ lấy vận đơn để giải quyết tranh chấp.
- Trường hợp 3: Vận đơn đã chuyển nhượng cho người khác, khi có tranh chấp phát sinh giữa người chuyên chở với người cầm vận đơn sẽ lấy vận đơn để giải quyết tranh chấp.
- Trường hợp 4: Vận đơn có dẫn chiếu đến các điều khoản của hợp đồng thuê tầu thì sẽ lấy các điều khoản của hợp đồng thuê tầu để giải quyết tranh chấp.
Ðối với loại vận đơn này thường trên vận đơn người ta ghi rõ “Vận đơn dùng với hợp đồng thuê tầu” - Bill of lading to be used with charter party.
3. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng thuê tầu chuyến
Hợp đồng thuê tầu chuyến là kết quả đàm phán giữa người thuê và người cho thuê tầu.
Trong hợp đồng người ta quy định rất rõ và cụ thể quyền lợi và nghĩa vụ của người thuê và người cho thuê bằng các điều khoản ghi trên hợp đồng. Chính vì thế, trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu có tranh chấp xảy ra giữa người chuyên chở và người thuê người ta sẽ lấy hợp đồng để giải quyết các tranh chấp.
Tất cả các điều khoản quy định trong hợp đồng đều có giá trị pháp lý để điều chỉnh hành vi giữa các bên.
Các điều khoản này buộc các bên ký kết phải thực hiện đúng như nội dung của nó. Bên nào thực hiện không đúng những quy định của hợp đồng có nghĩa là vi phạm hợp đồng. Khi vi phạm những điều khoản đã cam kết, bên vi phạm sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với những hậu quả do hành động vi phạm của mình gây ra. Nguồn luật điều chỉnh C/P là luật quốc gia chứ không phải các quy tắc quốc tế.
Trong các mẫu hợp đồng thuê tầu chuyến đều có điều khoản quy định rằng nếu có những tranh chấp phát sinh ngoài hợp đồng thì sẽ tham chiếu đến luật hàng hải của nước nào đó; tham chiếu đến luật hàng hải nước nào và xử tại hội đồng nào. Trọng tài nào do hai bên thoả thuận. Thường các mẫu hợp đồng thuê tầu chuyến dẫn chiếu đến luật hàng hải Anh hoặc Mỹ.
4. Điều khoản của hợp đồng thuê tàu chuyến
Hợp đồng thuê tầu chuyến là hợp đồng rất phức tạp có nhiều điều khoản khác nhau để xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của các bên. Hợp đồng thuê tầu chuyến có nhiều loại, song nhìn chung nội dung của hợp đồng bao gồm các điều khoản chủ yếu sau đây:
a. Chủ thể của hợp đồng:
Chủ thể của hợp đồng thuê tầu chuyến bao gồm: chủ tầu (hoặc người chuyên chở) và người thuê tầu (người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu).
Trong hợp đồng thuê tầu cần ghi rõ tên, địa chỉ của các bên. Những đại lý hoặc người môi giới là người được uỷ thác để ký hợp đồng thuê tầu thì phải ghi rõ ở cuối hợp đồng chữ “chỉ là đại lý - as Agent Only” mục đích để xác định tư cách của người ký hợp đồng.
b. Ðiều khoản về tầu:
Tầu là công cụ để vận chuyển hàng hoá nên ở điều khoản này người ta quy định cụ thể các đặc trưng cơ bản của con tầu mà hai bên đã thoả thuận như: tên tầu, quốc tịch tầu, chất lượng, động cơ, trọng tải, dung tích, mớn nước, vị trí của tầu....Trường hợp chủ tầu muốn giành được quyền thay thế tầu thì bên cạnh tên con tầu sẽ ghi thêm: “hoặc một tầu được thay thế khác - or/and Subssitute sister ship”. Khi phải thay thế tầu, chủ tầu phải báo trước cho người thuê biết và đảm bảo tầu thay thế phải có những đặc điểm kỹ thuật tương tự như tầu đã quy định trong hợp đồng.
c. Ðiều khoản về thời gian tầu đến cảng xếp hàng.
Là thời gian tầu phải đến cảng xếp hàng nhận hàng để chuyên chở theo quy định. Như vậy ở điều khoản này chủ tầu phải có trách nhiệm điều tầu đến cảng xếp hàng đúng thời gian quy định trong tư thế sẵn sàng nhận hàng để xếp. Có nhiều cách quy định thời gian tầu đến cảng xếp hàng như: quy định cụ thể, quy định khoảng hoặc quy định sau.
Trường hợp tầu đến trước thời gian quy định, người thuê tầu không nhất thiết phải giao hàng, nhưng nếu giao hàng thời gian sẽ tính vào thời gian làm hàng, ngược lại tầu đến mà chưa có hàng để giao thì số ngày tầu phải chờ đợi sẽ tính vào thời gian làm hàng.
Khi ký hợp đồng, tầu được thuê đang ở gần cảng xếp hàng, hai bên có thể thoả thuận theo các điều khoản sau:
- Prompt: Nghĩa là tầu sẽ đến cảng xếp hàng vài ba ngày sau khi ký hợp đồng.
- Promptismo: Nghĩa là tầu sẽ xếp hàng ngay trong ngày ký hợp đồng.
- Spot promt: Nghĩa là tầu sẽ xếp hàng ngay một vài giờ sau khi ký hợp đồng.
Chủ tầu phải thông báo cho người thuê tầu biết dự kiến thời gian tầu đến cảng xếp hàng (estimated time of arrival - ETA).
d. Ngày huỷ hợp đồng:
Ngày huỷ hợp đồng thường là ngày cuối cùng của thời gian tầu phải đến cảng xếp hàng. Cũng có trường hợp người ta quy định ngày huỷ hợp đồng muộn hơn một chút. Về mặt pháp lý việc tầu đến muộn là vi phạm hợp đồng, mọi chi phí đưa tầu đến cảng xếp hàng là chủ tầu phải tự gánh chịu. Song thực tế không phải tầu đến muộn là người thuê tầu huỷ hợp đồng, việc huỷ hợp đồng hay không người ta còn căn cứ vào từng trường hợp cụ thể.
e. Ðiều khoản về hàng hoá:
Khi thuê tầu chuyên chở một khối lượng hàng hoá nhất định, thì hai bên phải quy định rõ tên hàng, loại bao bì, các đặc điểm của hàng hoá. Người thuê chở hai loại hàng hoá trên cùng một chuyến tầu thì chú ý ghi chú vào hoặc tránh việc tranh chấp sau này. Quy định như vậy có nghĩa là người đi thuê tầu muốn giành quyền lựa chọn hàng (Cargo option). Về số lượng hàng hoá, có thể thuê chở theo trọng lượng hoặc theo thể tích, tuỳ đặc điểm của mặt hàng. Rất ít khi người ta quy định chính xác về số lượng hàng hoá thuê chuyên chở, mà thường ghi kèm theo tỷ lệ hơn kém (dung sai). Khi gửi thông báo sẵn sàng xếp hàng, thuyền trưởng sẽ tuyên bố chính thức số lượng hàng hoá chuyên chở. Người thuê tầu có trách nhiệm xếp đầy đủ toàn bộ số lượng hàng hóa đã được thông báo (Full and complete cargo). Nếu giao và xếp lên tầu ít hơn số lượng quy định, người chuyên chở sẽ thu tiền cước khống (Dead freight). Ngược lại, người chuyên chở không nhận hết số lượng quy định thì người thuê tầu có quyền lợi đòi bồi thường những chi phí liên quan đến việc tầu bỏ lại hàng.
f. Ðiều khoản về cảng bốc dỡ:
Hai bên thỏa thuận tên một cảng hoặc một vài cảng xếp hàng (Loading port). Cảng bốc dỡ quy định trong hợp đồng phải là cảng an toàn (Safe port) đối với tầu về mặt hàng hải và chính trị xã hội. Ðể mở rộng quyền hạn của mình về việc thay đổi cảng xếp dỡ khi cần thiết, chủ tầu thường đưa thêm câu hoặc nơi nào gần đấy mà tầu có thể đến được một cách an toàn và luôn luôn đậu nổi vào hợp đồng (or so near thereto as ship may safely get and lie always afloat).
Khi ký kết hợp đồng, ta nên thỏa thuận gạch bỏ bớt đoạn này. Riêng thuật ngữ always afloa (luôn luôn đậu nổi) nên thêm vào or safe aground (chạm đất an toàn) nhất là khi cảng bốc/dỡ chịu ảnh hưởng của phù sa bồi lấp và thuỷ triều. Trong trường hợp chưa xác định được cảng bốc/dỡ thì có thể quy định cảng bốc dỡ theo sự lựa chọn của người thuê tầu. Nếu quy định một số cảng bốc dỡ hoặc khu vực cảng bốc dỡ (Range of port), thì phải quy định thêm thứ tự địa lý của cảng xếp dỡ (port to be in Geographitical rotain) để giảm thời gian và chi phí đi lại của tầu, thứ tự địa lý của cảng xếp phụ thuộc vào luồng tầu chạy và sự lựa chọn của chủ tầu.
Số lượng cảng bốc dỡ có ảnh hưởng trực tiếp đến mức cước thuê tầu. Vì vậy, người thuê tầu cần cố gằng xác định rõ cảng xếp dỡ cụ thể, tránh ký kết chung chung về cảng xếp dỡ.
g. Ðiều khoản về cước phí thuê tầu:
Cước phí thuê tầu chuyến (Freight) do chủ tầu và người thuê tầu thương lượng và quy định rõ trong hợp đồng thuê tầu. Đây là một điều khoản quan trọng cua hợp đồng thuê tầu chuyến. Hai bên thoả thuận những nội dung sau:
+ Mức cước (Rate of freight):
Là tiền cước tính cho mỗi đơn vị cước (Freight unit). Ðơn vị tính cước có thể là đơn vị trọng lượng (tấn phổ thông, tấn Anh, tấn Mỹ) đối với hàng nặng (weight cargo) hay đơn vị thể tích (mét khối, cubic feet) đối với hàng cồng kềnh (meaurement cargo) hoặc một đơn vị tính cước khác như: Standard (hàng gỗ), gallon (dầu mỏ), Bushels (lúa mì) v,v… mức cước thuê bao (Lumpsum freight) không phụ thuộc vào loại và số lượng hàng hoá chuyên chở mà tính theo đơn vị trọng tải hoặc dung tích tầu. Bên cạnh mức cước thuê tầu, hai bên còn phải thoả thuận chi phí xếp dỡ thuộc về ai.
+ Số lượng hàng hoá tính tiền cước:
Tiền cước có thể tính theo số lượng hàng hoá xếp lên tầu ở cảng gửi hàng (intaken quantity) hay còn gọi là tiền cước tính theo số lượng hàng hoá ghi trên vận đơn (Bill of lading quantity), hoặc tính theo số lượng hàng giao tại cảng (Delivery quantity).
Khi chuyên chở hàng rời, giá trị thấp như quặng sắt, than đá việc cân lại hàng ở bến cảng đến rất tốn kém, nên trong hợp đồng thường quy định cước phí tính theo số lượng ghi trên vận đơn nhưng khấu trừ 1 - 2% tổng tiền cước phí để dùng cho chi phí không cân lại hàng (2% discount in lieu of weighting).
+ Thời gian thanh toán tiền cước:
Cước phí thanh toán tại cảng bốc hàng (Freight payable at port of loading), tức là toàn bộ chi phí phải thanh toán khi ký vận đơn (on signing of loading) hoặc sau khi ký vận đơn vài ngày. Cước phí thanh toán tại cảng dỡ hàng (Freight payable at the port of desination) hay còn gọi là cước phí trả sau (Freight to collect).
Thời gian thanh toán cước phí cảng dỡ có thể quy định cụ thể hơn như: Cước phí trả trước khi dỡ hàng (Freight payable before breaking bulk); Cước phí trả sau khi đã hàng xong (Freight payable after complete of discharge); Cước phải trả cùng với việc bốc dỡ hàng trong mỗi ngày (Freight payable concurent with discharge) v.v.. Nhưng cách tốt nhất là quy định cước phí thuê tầu, cước phí trả trước một phần, trả sau một phần. Với quy đinh này, người thuê tầu giữ lại được một phần cước phí để sau này bù trừ vào việc tính tiền thưởng phạt (nếu có).
Về nguyên tắc, người chuyên chở chỉ được thanh toán cước phí thuê tầu khi hàng hoá thực sự được chuyên chở đến cảng dỡ hàng quy định. Nhưng trong vận đơn hoặc hợp đồng thuê tầu thường ghi câu: Cước phí được coi như tiền thu nhập về chuyên chở khi bốc hàng lên tầu và trả không phụ thuộc vào việc tầu hoặc hàng hoá bị mất hay không mất. (Freight to be considered as earned upon shipment and must be paid ship and/ or cargo lost or not lost).
Ngoài ra trong điều khoản cước phí hai bên còn thoả thuận về địa điểm thanh toán, tỷ giá hối đoái của đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán, tiền cước phí ứng trước (advance freight) vv....
h. Ðiều khoản về chi phí bốc dỡ:
Chi phí bốc dỡ chiếm một tỷ trọng khá lớn trong giá cước chuyên chở hàng hoá. Trong trường hợp thuê tầu chuyến bao giờ cũng có điều khoản quy định về phân chia chi phí bốc dỡ giữa chủ tầu và người đi thuê tầu, trong thực tiễn đi thuê tầu, thường áp dụng nhiều công thức mẫu về phân chia chi phí bốc dỡ. Song các điều kiện dưới đây thường được áp dụng phổ biến nhất:
- Theo “Điều kiện miễn chi phí bốc dỡ hàng” (Free in = FI), tức là chủ tầu được miễn chi phí xếp hàng lên tầu, nhưng chịu chi phí bốc dỡ hàng khỏi tầu. Ðể phân định chính xác và cụ thể hơn đối với chi phí sắp đặt (Stowage) và san hàng (Trimming) trong hầm tầu cần ghi “Free in and Stowage = FI.S” hoặc “Free in and Trimming = FI.T”.
- Theo “Điều kiện miễn chi phí dỡ hàng” (Free out = FO), tức là chủ tầu được miễn chi phí dỡ hàng khỏi tầu, nhưng phải chịu chi phí bốc hàng lên tầu. Người nhận hàng phải chịu toàn bộ chi phí dỡ hàng từ hầm tầu lớn của cảng. Cụ thể thường ghi “Cargo to be taken by receivers out of ship’s free expense to the vessel”.
- Theo “Điều kiện miễn cả chi phí xếp dỡ hàng “Free in and out – FIO” tức là chủ tầu được miễn chi phí bốc dỡ hàng lên tầu, lẫn chi phí dỡ hàng khỏi tầu.
Ngoài ra còn quy định miễn thêm cả chi phí sắp đặt, san hàng bằng cách ghi: FI.O.S hoặc FI.O.T. Việc lựa chọn điều kiện và chi phí bốc dỡ nào trong hợp đồng thuê tầu, trước hết phải phụ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng trong hợp đồng mua bán ngoại thương. Mục đích của việc lựa chọn này là để phân định rõ ràng trách nhiệm của các bên tránh trả chi phí bốc dỡ hàng hai lần (cho người chuyên chở và người xuất khẩu hàng); trả những chi phí không thuộc trách nhiệm của mình, thuận lợi cho công việc tổ chức bốc dỡ hàng ở cảng.
i. Ðiều khoản về thời gian bốc dỡ:
Là khoảng thời gian do hai bên thoả thuận dành cho người đi thuê tầu tiến hành công việc bốc dỡ hàng lên tầu hoặc dỡ hàng khỏi tầu gọi là “thời gian cho phép” (allowed time).
Nếu người đi thuê tầu hoàn thành công việc bốc hàng hoặc dỡ hàng sớm hơn thời gian cho phép, thì được hưởng tiền thưởng bốc hoặc dỡ hàng nhanh (Despatch money).
Ngược lại, người đi thuê tầu hoàn thành công việc bốc hoặc dỡ hàng chậm hơn thời gian cho phép, thì bị phạt bốc dỡ hàng chậm (Demurrage).
Ðể tính thời gian cho phép bốc dỡ hàng, trong hợp đồng có thể quy định: Một số ngày cố định (ví dụ: 15 ngày bốc và 12 ngày dỡ) hoặc quy định mức bốc dỡ trung bình (loading/and/disharging rate) cho cả tầu trong một ngày. Khái niệm về “ngày” trong việc tính thời gian bốc dỡ hàng của hợp đồng thuê tầu chuyến được hiểu theo nghĩa sau đây:
- Ngày (Days) là ngày theo lịch.
- Ngày liên tục (Runing days), những ngày kế tiếp nhau trên lịch kể cả ngày lễ, ngày chủ nhật.
- Ngày làm việc (Working days) là những ngày làm việc chính thức tại các cảng do luật pháp của từng nước quy định.
- Ngày làm việc 24 giờ liên tục (Woking days of 24 consecutive hours) là ngày làm việc 24 giờ, chứ không phải là ngày làm việc 8 giờ. Một ngày làm việc liên tục được tính từ nửa đêm hôm trước đến nửa đêm hôm sau.
- Ngày làm việc tốt trời (Weather woking days) là những ngày thời tiết tốt cho phép tiến hành công việc bốc hoặc dỡ hàng. Ngày mưa, gió, bão là thời tiết xấu không thể tiến hành bốc hoặc dỡ hàng nên không tính.
- Ngày chủ nhật (Sundays) là ngày nghỉ cuối tuần do luật pháp của từng nước quy định. Ngày chủ nhật thường là ngày nghỉ làm việc, nhưng cũng có thể tiến hành bốc dỡ được, tuỳ theo quy định của hợp đồng.
- Ngày lễ (Holidays) bao gồm những ngày lễ quốc gia và ngày lễ quốc tế. Trong ngày lễ này thường nghỉ làm việc, nhưng cũng có thể tiến hành bốc dỡ hàng tuỳ theo quy định của hợp đồng. Từ những khái niệm về ngày nói trên, ta thấy được thời gian cho phép bốc dỡ hàng khác hẳn so với ngày tính trên lịch thông thường.
Thời gian cho phép có thể quy định riêng cho bốc dỡ hàng, tức là tính thưởng phạt riêng cho từng cảng, hoặc quy định thời gian cho phép chung cả bốc dỡ hàng, tức là sau khi hoàn thành việc dỡ hàng mới tính thưởng phạt.
Thời gian cho phép bốc dỡ hàng bắt đầu tính từ khi nào? Mốc để bắt đầu tính thời gian cho phép bốc thông báo sẵn sàng bốc dỡ theo quy định của hợp đồng. Trong hợp đồng cũng phải quy định rõ: Thời gian tầu phải chờ bến đậu (time lost in waiting for berth) có tính vào thời gian cho phép bốc dỡ hay không.
Tiền thưởng bốc dỡ nhanh (despatch money): Là số tiền mà chủ tầu thưởng cho người đi thuê tầu khi họ hoàn thành công việc bốc dỡ hàng trước thời gian cho phép.
Tiền phạt bốc dỡ chậm (Demurrage money): Là tiền mà người đi thuê tầu bị phạt khi họ hoàn thành việc bốc dỡ hàng sau thời gian cho phép. Mức tiền thưởng thông thường chỉ bằng 1/2 mức tiền phạt.
Nguyên tắc của phạt bốc dỡ chậm là “Khi bị phạt thì luôn luôn bị phạt” (once on demurrag, always on demurrage), tức là một khi đã phạt thì những ngày tiếp theo kể cả ngày chủ nhật, ngày lễ, ngày xấu trời đều bị phạt. Nhưng tiền thưởng lại quy định theo 2 trường hợp: thưởng cho tất cả thời gian tiết kiệm được (all time saved) hoặc chỉ thưởng cho thời gian làm việc tiết kiệm được (working time saved).
j. Ðiều khoản về trách nhiệm và miễn trách của người chuyên chở:
Trong hợp đồng thuê tầu đều quy định người chuyên chở có trách nhiệm đối vời những hư hỏng, mất mát của hàng hoá trong các trường hợp sau:
- Do thiếu sự cấn mẫn hợp lý (Due Deligence) làm cho tầu không đủ khả năng đi biển.
- Do xếp đặt hàng hoá không tốt (Bad stowage), do bảo quản hàng hoá không chu đáo.
- Do thiên tai, tai nạn bất ngờ ngoài biển, cướp biển. Do ẩn tỳ của tầu và máy móc. Do bản chất của hàng hoá.
- Do cháy, nhưng không do lỗi của sĩ quan thuỷ thủ trên tầu. Do chiến tranh và các hoạt động bị bắt, tịch thu của chính phủ.
k. Các điều khoản khác:
Trong hợp đồng thuê tầu, có nhiều các điều khoản khác trong đó cần lưu ý: Điều khoản về Trọng tài (arbitration clause), điều khoản về Hai tầu đâm và nhau cùng có lỗi (Both to blame conlison clause), điều kiện thông báo tầu ETA (Expected time of arrival), điều khoản Kiểm đếm (Tally clause).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét